Người giáo viên chủ nhiệm trong việc hình thành nhân cách cho học sinh lớp 1.

SÁNG KIẾN ĐẠT GIẢI CẤP TỈNH NĂM HỌC 2014- 2015
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1/ Tên sáng kiên kinh nghiệm:
Người giáo viên chủ nhiệm trong việc hình thành nhân cách cho học sinh lớp 1.

2/ Lĩnh vực áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Học sinh lớp một Trường Tiểu học Nam Minh nói riêng_ Học sinh Trường
Tiểu học Nam Minh nói chung.

3/ Thời gian áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Từ ngày 15 tháng 9 năm 2013 đến ngày 20 tháng 4 năm 2015.
4/ Tác giả:
Họ và tên: NGUYỄN THỊ THUẬN
Ngày tháng năm sinh: Ngày 28 tháng 8 năm 1979
Nơi thường trú: Đội _ Bình Minh_ Nam Trực_ Nam Định.
Trình độ chuyên môn: Cao đẳng sư phạm Tiểu học.
Chức vụ công tác: Giáo viên chủ nhiệm lớp 1A.
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Nam Minh_ huyện Nam Trực_ tỉnh Nam Định.
Địa chỉ liên hệ: Trường Tiểu học Nam Minh_ huyện Nam Trực_ tỉnh Nam Định.
Số điện thoại: 01277258813_ 012685114357.
5/ Đồng tác giả: (nếu có)
Họ và tên: ……………………………………………………………………………..
Ngày tháng năm sinh: …………………………………………………………………
Nơi thường trú: ……………………………………………………………………….
Trình độ chuyên môn: ………………………………………………………………..
Chức vụ công tác: …………………………………………………………………….
Đơn vị công tác: ………………………………………………………………………
Địa chỉ liên hệ: …………………………………………………………………………
Số điện thoại: …………………………………………………………………………
6/ Đơn vị áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Tên đơn vị: Trường Tiểu học Nam Minh_ huyện Nam Trực_ tỉnh Nam Định.
Địa chỉ: xã Bình Minh_ huyện Nam Trực_ tỉnh Nam Định.
Điện thoại: 01256381221.

MỤC LỤC
NỘI DUNG TRANG

Bìa
Thông tin về sáng kiến
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt 3

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 4
I/ Lý do chọn sáng kiến 4
II/ Mục đích nghiên cứu 9
II/ Giới hạn sáng kiến 9
IV/ Đối tượng và khách thể nghiên cứu 9
V/ Giả thuyết nghiên cứu 9
VI/ Nhiệm vụ nghiên cứu 9
VII/ Phương pháp nghiên cứu 10
VIII/ Phạm vi nghiên cứu và khả năng áp dụng sáng kiến 10

PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: 11
I/ Những vấn đề lí luận chung 11
II/ Tìm hiểu thực trạng của vấn đề 13
III/ Các giải pháp giải quyết vấn đề 15
IV/ Hiệu quả của sáng kiến 31
V/ Bài học rút kinh nghiệm 33

PHẦN III: KẾT THÚC VẤN ĐỀ 36
I/ Kết luận chung 36
II/ Kiến nghị_ đề nghị 37
Tài liệu tham khảo
Phụ lục

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Câu_ cụm từ Chữ viết tắt
– Xã hội chủ nghĩa XHCN
– Giáo viên chủ nhiệm GVCN
– Học sinh HS
– Hội đồng tự quản HĐTQ
– Hội đồng giáo dục HĐGD
– Ban giám hiệu BGH
– Ban chấp hành BCH
– Phụ huynh học sinh PHHS
– Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp HĐGDNGLL

Sáng kiến kinh nghiệm:
Người giáo viên chủ nhiệm
trong việc hình thành và phát triển nhân cách cho
học sinh lớp 1.

PHẦN I_ ĐẶT VẤN ĐỀ:
I/ LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1/ Xuất phát từ mục tiêu giáo dục toàn diện:
Khi nói về mục tiêu giáo dục toàn diện, Bác Hồ đã chỉ rõ: “Bồi dưỡng cách mạng cho thế hệ sau là một việc làm quan trọng và cần thiết”. Người nhiều lần nhắc nhở: “Thế hệ trẻ là chủ nhân tương lai của đất nước. Nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do thế hệ trẻ”. Như vậy, công tác đào tạo, bồi dưỡng phải đạt cho được mục tiêu giáo dục toàn diện, để lực lượng thế hệ trẻ sau này đủ sức phụng sự đất nước, phục vụ nhân dân. Để làm được điều này, phải xác định mục tiêu cụ thể của từng bậc học, từng lĩnh vực như Bác đã căn dặn:
“- Làm Mẫu giáo tức là làm thay mẹ dạy trẻ. Muốn làm được thế, trước hết phải yêu trẻ. Các cháu nhỏ hay quấy khóc, phải bền bỉ chịu khó mới dạy được các cháu. Dạy trẻ như trồng cây non. Trồng cây non tốt thì sau này cây sẽ lên tốt. Dạy trẻ nhỏ tốt thì sau này các cháu sẽ thành người tốt.
– Tiểu học phải dạy các cháu thiếu nhi yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công. Cách dạy phải nhẹ nhàng và vui vẻ, chớ gò ép vào khuôn khổ của người lớn, phải đặc biệt chú ý giữ gìn sức khỏe cho các cháu.
– Trung học phải đảm bảo cho học trò những tri thức phổ thông chắc chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng đất nước, bỏ nhứng phần mà không cần thiết cho công cuộc xây dựng nước nhà.
– ………..”
Như vây, đối chiếu với những yêu cầu hiện nay, chúng ta thấy rằng Bác Hồ đã rất quan tâm đến vấn đề giáo dục toàn diện. Bậc Tiểu học là bậc học nền tảng, việc giảng dạy và giáo dục phải quan tâm tới việc giáo dục toàn diện cho học sinh, trong đó việc hình thành và phát triển ở học sinh nhân cách và những thói quen sống tích cực là vấn đề mỗi giáo viên phải thực sự quan tâm. Hay nói tóm tắt: “thông qua dạy chữ mà dạy người, thông qua dạy học mà giáo dục; hay qua giáo dục mà thúc đẩy dạy học, qua dạy người mà thúc đẩy dạy chữ”.
2/ Xuất phát từ yêu cầu giáo dục xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Trong toàn bộ di sản tư tương Hồ Chí Minh, vấn đề được Bác Hồ đặc biệt quan tâm là đào tạo con người Việt Nam thông qua các hoạt động giáo dục gắn chặt với mục tiêu xây dựng đất nước. Người khảng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có con người xã hội chủ nghĩa”. Ngành giáo dục phải làm thế nào để có con người xã hội chủ nghĩa. Bác đã chỉ ra đặc trưng cơ bản của con người xã hội chủ nghĩa, hay nói cách khác, Bác đã giao nhiệm vụ cho các nhà giáo dục về yêu cầu sản phẩm của quá trình giáo dục và đào tạo với các tiêu trí cụ thể về con người Việt Nam là:
– Có ý thức và tinh thần làm chủ tập thể, co tư tưởng “mình vì mọi người và mọi người vì mình”, có tinh thần dám nghĩ, dám làm không ngừng vươn lên.
– Có đạo đức lối sống tốt, trung với nước, hiếu với dân, yêu thương con người, cần kiệm liên chính, chí công vô tư, có tinh thần quốc tế trong sáng, có lối sống lành mạnh và trong sạch.
– Là con người lao động có kế hoạch, có phương pháp, có quyết tâm; lao động có tổ chức, có kỉ luật; có năng xuất chất lượng và hiệu quả, lao động quên mình không sợ khó, sợ khổ; vì ích lợi của xã hội, của tập thể và của bản thân mình.
– Có năng lực làm chủ bản thân, gia đình và công việc mà mình đảm nhận với tư cách là công dân tham gia làm chủ Nhà nước và xã hội; không ngừng nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ để làm chủ.
Như vậy, để có sản phẩm con người mới XHCN như lời Bác đã chỉ ra. Trước hết, bản thân mỗi nhà giáo vừa phải là con người mới XHCN với các tiêu chí như Bác đã nêu, vừa là người thầy “thực thụ”, người có đủ năng lực, phẩm chất đạo đức. Bác đã căn dặn: “Các thầy cô giáo có nhiệm vụ rất nặng nề là đào tạo cán bộ cho dân tộc. Vậy giáo dục cần nhằm vào mục đích, thật thà phục vụ nhân dân. Trong các nhiệm vụ chung của giáo dục, có một nhiệm vụ cơ bản là phục vụ thế hệ trẻ”.
3/ Xuất phát từ sự chỉ đạo của Ngành giáo dục thời kỳ hội nhập:
Trong công cuộc đổi mới đất nước, mọi mặt của đời sống kinh tế_ xã hội đang có sự thay đổi hàng ngày, hàng giờ. Đòi hỏi phải có những con người tiên tiến có tri thức vững vàng, có nhân cách và bản lĩnh, luôn chủ động sáng tạo, dám nghĩ dám làm luôn thích ứng với sự thay đổi của thực tế xã hội, phù hợp với tình hình đất nước thời kỳ hội nhập. Yêu cầu này, đòi hỏi ngành giáo dục nói chung, những người làm công tác giáo dục nói riêng phải có sự đổi mới, sự chuyển biến thực sự mang tính thiết thực phù hợp với công cuộc đổi mới đất nước, để tạo ra lớp người mới toàn diện vừa hồng_ vừa chuyên. Và thực sự ngành giáo dục đang có những bước thay đổi lớn, từ nghị quyết của Đảng, cương lĩnh đất nước đến luật giáo dục và các hệ thống văn bản của ngành đều chỉ rõ giáo dục đào tạo phải tạo ra lớp người mới toàn diện, năng động có nhân cách hội tụ đầy đủ: đức_ trí_ thể_ mĩ. Đúng vậy, đức_ trí_ thể_ mĩ sẽ tạo nên cốt cách một con người toàn vẹn vì: cái đức là gốc, tài năng là sự biểu hiện của đức độ; đức độ, tài năng đầy đủ hơn, minh mẫn hơn, phụng sự tốt hơn thì cần có cơ thể khỏe khoắn, có nhân cách, thẩm mĩ. Tất cả sẽ tạo lên một nhân cách lớn, nhạy bén, thích ứng trong mọi việc, mọi hoàn cảnh…
Bậc tiểu học là bậc nền tảng, là nền móng trong hệ thống giáo dục quốc dân, đặt cơ sở ban đầu cho sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh sau này. Đối với học sinh tiểu học, hoạt động trong nhà trường là chủ đạo, nhà trường là nơi tổ chức các hoạt động chuyên biệt, là nơi giáo dục trẻ theo mục tiêu giáo dục của bậc học. Bởi vậy, nhà trường là nơi diễn ra cuộc sống của trẻ, là nơi trẻ bộc lộ khả năng, năng lực, nhân cách một cách đầy đủ, rõ ràng nhất.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Vì lợi ích mười năm trồng cây_Vì lợi ích trăm năm trồng người”. Để đảm bảo được nhiệm vụ trồng người thì mỗi giáo viên phải có nhiệm vụ đào tạo nên những con người có đức, có tài cho xã hội. Bởi thế, nhiệm vụ của mỗi người không chỉ cung cấp cho học sinh những kiến thức về tự nhiên_ xã hội mà còn phải xây dựng và hình thành cho các em ý thức tự chủ, tinh thần trách nhiệm cao ngay từ nhỏ… Nói cách khác, giáo viên vừa dạy chữ, vừa dạy cách làm người cho các em khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
Bậc tiểu học là giai đoạn đầu của chương trình giáo dục phổ thông, có thể nói học sinh tiểu học là giai đoạn tất yếu của quá trình học, là giai đoạn mở đầu cho một con người đến với văn hoá, đến với tri thức. Cũng từ giai đoạn này nhân cách của học sinh được hình thành và dần dần phát triển. Giai đoạn học sinh học ở bậc tiểu học, nhất là giai đoạn lớp một, với mỗi học sinh là hết sức quan trọng. Đây chính là giai đoạn nền móng của quá trình phát triển năng lực tư duy và đặc biệt là quá trình phát triển nhân cách của học sinh sau này.
4/ Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi Tiểu học:
Học sinh lớp 1 rất ngây thơ, tâm hồn các em như một tờ giấy trắng, vẽ lên đó đẹp hay xấu phần lớn là tác động của thầy, cô giáo_ đặc biệt là thầy cô chủ nhiệm. Những năm gần đây, khi các trường có điều kiện tổ chức cho các em học hai buổi/ ngày thì phần lớn thời gian trong ngày các em được sống và giao tiếp với thầy cô chủ nhiệm, với bạn bè. Học sinh lớp 1 còn rất non nớt, các em sống trong những gia đình có hoàn cảnh khác nhau, nếp sống khác nhau nên nhận thức và nếp sống cũng khác nhau. Đặc biệt tư duy trẻ lớp 1 cũng rất cụ thể cảm tính. Các em rất ham hiểu biết, thích bắt chước, mà lại chưa có kinh nghiệm sống nên các em rất dễ tiếp thu các tốt, cái xấu (không chọn lọc) nếu không có định hướng của thầy cô . Năm đầu tiên của đời học sinh, trẻ rất bỡ ngỡ với việc chuyển hoạt động chủ đạo từ chơi sang hoạt động học tập, đặc biệt rất dễ xúc động với các yêu cầu và quy tắc của trường học.
Học sinh lớp 1 cũng không phải là quá bé, với vốn ngôn ngữ, kinh nghiệm sống, việc hình thành đạo đức và kiến thức đã thu được ở gia đình, ở nhà trẻ, ở các lớp mẫu giáo, các em có thể tiếp thu các chuẩn mực đạo đức và kiến thức ban đầu ở dạng hành vi cụ thể không khó khăn, từ đó làm nẩy nở những tình cảm, thói quen đạo đức và những tư duy ban đầu của các em. Nếu trong quãng thời gian đó các em không may gặp phải “người thợ vẽ” tồi, người công nhân xây dựng thiếu trách nhiệm (hình tượng hóa người thầy) thì suốt đời “trang nhân cách” trong các em sẽ giữ lại vết hằn khó xoá. Và nếu chúng ta không quan tâm giáo dục chu đáo_ hình thành trong mỗi con người các em những nhân cách tích cực, phù hợp thì điều chúng ta không ngờ sẽ đến và chính chúng ta là người đầu tiên phải gánh chịu hậu quả.
5/ Sự cần thiết phải đúc kết sáng kiến kinh nghiệm:
Nhận thức được tầm quan trọng nêu trên, là một giáo viên chủ nhiệm đặc biệt là chủ nhiệm lớp một, bản thân luôn tự nhủ, trước tiên mình phải là một tấm gương của học sinh về cách ăn nói mẫu mực, cư xử đúng mực, nghiêm túc nhưng phải thân thiện, thực sự có lòng yêu thương, thông cảm với các em, là chỗ dựa vững chắc nhất mỗi khi các em đến trường, vào lớp học của mình.
Trong lĩnh vực giáo dục, người thầy không chỉ có lòng “yêu nghề mến trẻ” đem hết nhiệt tình để truyền đạt kiến thức cho học sinh mà quan trọng hơn là chữ “tâm” trong mỗi người thầy thể hiện qua những việc làm của công tác chủ nhiệm.
Để học sinh tiếp thu được kiến thức và vận dụng được kiến thức đó trong thực tiễn ngoài sự tận tụy, quyết tâm của người thầy trên bục giảng, người giáo viên chủ nhiệm chính là nhịp cầu nối, là động lực giúp các em chủ động tiếp thu kiến thức, hăng say và thi đua trong học tập.
Như chúng ta đã biết mục tiêu của công tác chủ nhiệm lớp ở Trường Tiểu học là nhằm giúp học sinh có hiểu biết ban đầu về một số chuẩn mực hành vi đạo đức và pháp luật phù hợp với lứa tuổi trong các mối quan hệ của các em với bản thân, gia đình, nhà trường, cộng đồng, môi trường tự nhiên và ý nghĩa của việc thực hiện theo chuẩn mực đạo đức đó.
Từng bước hình thành kỹ năng nhận xét, đánh giá hành vi của bản thân và những người xung quanh theo chuẩn mực được giáo dục; kỹ năng lựa chọn và thực hiện các hành vi ứng xử phù hợp với chuẩn mực trong các quan hệ và tình huống đơn giản, cụ thể của cuộc sống, biết nhắc nhở bạn bè cùng thực hiện.
Từng bước hình thành thái độ tự trọng, tự tin; yêu thương, tôn trọng con người; yêu cái thiện, cái đúng, cái tốt, không đồng tình với cái ác, cái sai, cái xấu.
Từng bước giúp học sinh khám phá và tìm hiểu kiến thức và kỹ năng cơ bản phù hợp với trình độ, lứa tuổi của học sinh.
Bằng những kinh nghiệm thực tiễn, những tìm tòi nghiên cứu từ những khía cạnh khác nhau, những đối tượng khác nhau, bản thân tôi đúc rút được những biện pháp để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp và thông qua công tác chủ nhiệm mà thực hiện nhiệm vụ giáo dục, hình thành và phát triển nhân cách cũng như nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh lớp 1. Từ suy nghĩ đến những việc đã và đang làm trong công tác chủ nhiệm lớp, bản thân tôi thấy cần thiết phải tích lũy và trình bày sáng kiến: “Người giáo viên chủ nhiệm trong việc hình thành nhân cách cho học sinh lớp một”. Và thật vinh dự sáng kiến này đã được Hội đồng khoa học nhà trường; và hơn nữa là Hội đồng khoa học Phòng Giáo dục và đào tạo huyện Nam Trực đánh giá và đề cử tham dự Hội thi Giáo viên chủ nhiệm giỏi toàn tỉnh Nam Định_ lần thứ nhất và đạt giải Nhì tại hội thi. Và hôm nay, thực hiện công văn 313/SGDĐT-VP ngày 10/ 4/ 2015 của Sở GD-ĐT Nam Định về việc hưởng ứng Hội thi viết SKKN dự thi cấp tỉnh năm 2015; công văn số 73/PGDĐT ngày 14/ 4/ 2015 về việc chỉ đạo hưởng ứng Hội thi viết SKKN dự thi cấp tỉnh năm 2015, sau khi điều chỉnh, bổ sung, tôi mạnh dạn đăng kí dự thi SKKN tỉnh Nam Định năm học 2014- 2015.
II/ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Từ thực trạng trên, Sáng kiến tìm ra những nguyên nhân mà công tác chủ nhiệm chưa đạt hiệu quả. Qua đó, đề xuất một số biện pháp để giáo viên làm công tác chủ nhiệm kết hợp giảng dạy và giáo dục, đặc biệt là giáo dục nhân cách cho học sinh lớp một, góp phần không ngừng nâng cao chất lượng giảng dạy và giáo dục học sinh.
III/ GIỚI HẠN SÁNG KIẾN
Sáng kiến chỉ tập trung nghiên cứu về công tác chủ nhiệm lớp và việc hình thành nhân cách cho học sinh lớp 1 ở cơ sở trường học đang công tác (Trường Tiểu học Nam Minh_ Nam Trực_ Nam Định).
IV/ ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
1/ Đối tượng nghiên cứu: Học sinh Trường Tiểu học Nam Minh nói chung, học sinh lớp một chủ nhiệm nói riêng.
2/ Khách thể nghiên cứu: Tìm hiểu thực trạng công tác chủ nhiệm lớp và việc giáo dục nhân cách cho học sinh của giáo viên trong Trường tiểu học
V/ GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
Nếu các lớp áp dụng đồng bộ các kinh nghiệm mà sáng kiến đã nêu ra thì công tác chủ nhiệm lớp và việc giáo dục nhân cách cho học sinh sẽ đạt kết quả cao trong những năm học tiếp theo, đặc biệt là cơ sở Trường Tiểu học đang công tác (Trường Tiểu học Nam Minh_ Nam Trực_ Nam Định).
VI/ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Để đạt được mục đích nêu trên, sáng kiến đã tự xác định cho mình những nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
1/ Nghiên cứu cơ sở lí luận.
2/ Tìm hiểu thực trạng công tác chủ nhiệm ở Trường Tiểu học Nam Minh nói chung và đúc rút từ thực tế lớp chủ nhiệm nói riêng.
3/ Đề xuất một số giải pháp về công tác chủ nhiệm lớp, việc hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh lớp một nhằm góp phần không ngừng nâng cao chất lượng giảng dạy và giáo dục học sinh.
VII/ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1/ Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Tìm đọc tài liệu;
2/ Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp điều tra, phương pháp trực quan, phương pháp quan sát, phương pháp thống kê, …
VII/ PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG:
1/ Phạm vi nghiên cứu: Người giáo viên chủ nhiệm trong việc hình thành nhân cách cho học sinh lớp 1A.
2/ Khả năng áp dụng: Học sinh lớp 1A Trường Tiểu học Nam Minh nói riêng_ Học sinh Trường Tiểu học Nam Minh nói chung.

PHẦN II_ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:

I/ NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG
Luật giáo dục ghi rõ : “Giáo dục Tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở”.
Như vậy, theo các nhà nghiên cứu giáo dục cần hiểu mục tiêu giáo dục tiểu học ghi trong luật có mấy định hướng mới sau:
– Cần hiểu đúng khái niệm “giúp học sinh” chứ không phải “cung cấp” hay “trang bị”. Giúp học sinh nghĩa là thầy cô giáo, các bậc cha mẹ học sinh không áp đặt, phải coi học sinh là chủ thể của quá trình tiếp thu kinh nghiệm sống, tiếp nhận tích cực những kiến thức và rèn luyện kỹ năng để phát triển nhân cách dưới sự điều khiển của nhà sư phạm. Để làm tốt nhiệm vụ này, Bác Hồ đã từng nhắc nhở: “Dạy trẻ phải giữ gìn “toàn vẹn cái tính vui vẻ hoạt bát, tự nhiên, tự động, trẻ trung của chúng, chớ nên làm cho chúng hóa ra những người già sớm”. Nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh đối với vấn đề nhiệm vụ và mục đích của giáo dục, chúng ta có thể nói rằng Bác đã giao nhiệm vụ cho ngành, cho đội ngũ giáo viên. Công cuộc đổi mới nền giáo dục hiện nay, mà chúng ta đang thực hiện, phải chăng là sự trở về với bản chất quá trình dạy học và giáo dục mà Bác Hồ kính yêu của chúng ta_ người thầy vĩ đại của cả dân tộc đã chỉ ra cách đây rất lâu. Yêu cầu về đội ngũ thời kì kháng chiến cứu quốc là thế thì yêu cầu về người thầy của thời kì công nghiệp hóa_ hiện đại hóa đất nước hiện nay càng phải đòi hỏi, ngoài năng lực chuyên môn và khả năng thích ứng còn phải có nhân cách với kĩ năng sống thực thụ thì chỉ có ở con người mới XHCN.
Mối quan hệ giữa nhà sư phạm (thầy cô, cha mẹ, các thế hệ lớn tuổi) với cá nhân, tập thể học sinh Tiểu họclà mối quan hệ tương tác. Từ quan niệm đó, trong nhà trường, mỗi thầy cô giáo phải tôn trọng, luôn có ý thức giúp đỡ, động viên các em chủ động học tập, rèn luyện_ nhất là học sinh lớp 1.
– “Phát triển đúng đắn” là sự phát triển nhân cách của trẻ phù hợp với quy luật tâm sinh lí lứa tuổi học sinh Tiểu học. Chẳng hạn, quy luật nhận thức ở lứa tuổi Tiểu học là quá trình nhận thức cảm tính là chủ yếu. Vì vậy, tổ chức dạy học, hoạt động giáo dục cần dựa vào sự kiện, hiện tượng sinh động, dễ hiểu để trẻ có thể sử dụng các giác quan trong quá trình nhận thức cảm tính. Đặc điểm nhận thức của trẻ là dựa trên trực quan sinh động, chưa phát triển tư duy trừu tượng. Trẻ em tiểu học tư duy xúc cảm chiếm ưu thế. Vì vậy, cần sử dụng phương pháp dạy học, phương pháp giáo dục tạo ra xúc cảm sẽ là cơ sở phát triển tư duy sáng tạo và ý chí. Xúc cảm là nền tảng hình thành tình cảm trong sáng. Vì vậy, đòi hỏi thầy cô giáo khi sử dụng các phương pháp dạy học và giáo dục cần tận dụng các phương pháp gây cho trẻ những xúc cảm lành mạnh. Đồng thời, cần thay đổi các phương pháp, hình thức hoạt động cho trẻ đỡ căng thẳng, mệt mỏi trong hoạt động.
Cần sử dụng, tận dụng và kết hợp các phương pháp, hình thức dạy học, giáo dục, các điều kiện, yếu tố, các sự kiện, hiện tượng tự nhiện và xã hội xảy ra xung quanh các em; cần đưa các em vào thế giới thực hoặc sử dụng phương pháp, hình thực giả định giàu hình ảnh, giàu cảm xúc như đóng vai, xem các vở diễn, đọc truyện tranh… để các em phát triển óc tưởng tượng, rèn luyện các hành vi, bộc lộ xúc cảm, tình cảm.
– Phát triển đúng đắn còn có nghĩa là những kiến thức cung cấp cho trẻ phải chính xác, khoa học, đơn giản, dễ hiểu. Những kĩ năng, thói quen hành vi giáo dục cho trẻ phải chuẩn xác. Chẳng hạn khi học tiếng Việt phải dạy phát âm đúng ngay từ đầu. Cũng như vậy phải hướng dẫn trẻ rèn luyện những hành vi, thói quen, đúng mục tiêu giáo dục nhân cách. Giáo dục rèn luyện cho trẻ hiểu đúng, làm đúng những quy định chung của truyền thông đạo lí, biết tôn trọng nguyên tắc sống và quy định của pháp luật là nền tảng hình thành năng lực sau này. Giáo dục trẻ theo đúng mục tiêu giáo dục tiểu học phù hợp với đặc điểm tâm lí chính là đặt nền móng cho phát triển nhân cách sau này của các em.
– Phân tích mức độ của khái niệm “Hình thành cơ sở ban đầu của sự phát triển nhân cách học sinh tiểu học”. Cần khảng định ngay: “Hình thành cơ sở ban đầu…” không phải cung cấp kiến thức các lĩnh vực khoa học cho học sinh tiểu học là chủ yếu, mà là hình thành nền móng đầu tiên cho sự phát triển toàn diện nhân cách. Nghĩa là tổ chức hoạt động dạy học, hoạt động thể dục thể thao, vui chơi giải trí, văn hóa văn nghệ, tăng cường giao lưu, giao tiếp của trẻ. Thông qua các hoạt động đa dạng, phong phú đó, tạo cơ hội cho trẻ được hình thành những phẩm chất tâm lí, tính cách, những hành vi, những kĩ năng ban đầu của quá trình phát triển nhân cách, tạo tiềm năng, xây dựng nền móng cho sự phát triển lâu dài, bền vững về sau.

II/ THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ:
1/ Đặc điểm tình hình:
1.1/ Nghiên cứu tình hình địa phương (thuận lợi_ khó khăn):
– Đảng bộ, chính quyền và các ban ngành đoàn thể, đặc biệt là phụ huynh quan tâm tạo điều kiện về mặt tinh thần; cơ sở vật chất phòng học tương đối đầy đủ, 100% phòng học những năm qua được lát gạch men, hệ thống chiếu sáng, quạt mát được trang bị phục vụ hiệu quả công tác giảng dạy và giáo dục học sinh.
– Đội ngũ nhà trường được trẻ hóa và được đào tạo chính quy, cộng với sự tâm huyết, nhiệt tình, lại được ban giám hiệu nhà trường bồi dưỡng thường xuyên, quan tâm khích lệ trong các hoạt động giảng dạy và giáo dục, cũng như học tập trau đồi nên những năm qua chất lượng giảng dạy và giáo dục luôn ổn định và luôn đứng trong tốp đầu của huyện tạo được lòng tin đối với Đảng bộ, chính quyền, đặc biệt là phụ huynh học sinh tin yêu.
– Nhà trường được công nhận đạt chuẩn mức độ 1 giai đoạn 2011- 2015, trường Xanh_ Sạch_ Đẹp_ An toàn năm 2014. Và đang trong lộ trình xây dựng chuẩn mức độ II nên được Đảng bộ, chính quyền, nhân dân và đặc biệt là sự quan tâm tư vấn sát sao về chuyên môn, rồi việc đầu tư trang thiết bị giảng dạy và giáo dục của Phòng giáo dục và đào tạo Nam Trực nên mọi hoạt động của nhà trường khá thuận lợi.
– Tình hình học sinh ổn định, cơ bản được gia đình quan tâm đầu tư hiệu quả phục vụ tốt công tác học tập, tu dưỡng của học sinh như: việc đi lại học tập, tu dưỡng khá thuận lợi (trường nằm ở trung tâm khu dân cư), học sinh ở xa (3-4km) được gia đình đưa đón; trang thiết bị học tập, tu dưỡng của học sinh khá đầy đủ…
– Sự nuông chiều, chăm chút thái quá, tùy tiện của một bộ phận không nhỏ phụ huynh trong mọi sinh hoạt của trẻ: sinh hoạt, cách ăn nói…-> người giáo viên chủ nhiệm lớp một phải mất nhiều thời gian, công sức uốn nắn, giáo dục hình thành nhân cách cho học sinh.
1.2/ Nghiên cứu học sinh lớp chủ nhiệm: Lớp 1A năm học 2013_2014.
+ Số lượng phù hợp và thuận lợi cho giảng dạy và giáo dục: Năm học 2013_ 2014: 30 em
+ Chất lượng học tập, ưu – nhược điểm chung: Số học sinh đi học mẫu giáo và số học sinh đi học không đều qua tìm hiểu có: 27 em đi học còn 3 em cũng có đi học nhưng không đều. Khảo sát kiến thức có 9 em nhận diện rất tốt về chữ và số; còn 15 em nhận dạng chữ và số còn nơ mơ; 6 em chưa biết gì về chữ và số.
+ Đặc điểm lứa tuổi: Tự động, chưa có nền nếp, thói quen và việc sinh hoạt tùy tiện.
+ Đặc điểm cá biệt, hoàn cảnh gia đình: Nhìn chung tình hình phụ huynh dân trí ở mức trung bình: cán bộ_viên chức 13%; còn lại là làm nông nghiệp 87%; trong đó gia đình có hoàn cảnh khó khăn chiếm 13% (=4HS: Vũ Tuấn Anh; Nguyễn Thị Thanh Huyền; Nguyễn Thị Thơm; Nguyễn Minh Phượng).
+ Năng lực hoạt động của từng học sinh: nhút nhát, duy có một số học sinh hiếu động.
2/ Phân tích nguyên nhân (khách quan_ chủ quan):
– Tình hình dân trí thuộc khu vực nông thôn nên ở mức trung bình, cộng với bình quân thu nhập theo gia đình khá thấp dẫn tới việc những lao động chính trong gia đình (thường là cha mẹ học sinh) phải xa nhà đi làm ăn, buôn bán ở xa mọi việc quan tâm cho con em mình học tập, tu dưỡng phó mặc vào ông bà (tuổi cao) nên chưa đáp ứng được yêu cầu của trường lớp học (mọi việc giao phó cho nhà trường, cô giáo) là những khó khăn lớn của lớp chủ nhiệm.
– Việc học tập ở trường Mầm non_ Mẫu giáo không chuyên cần do trẻ em nông thôn tuy tiện trong việc sinh hoạt ăn nghỉ, đòi gì được đấy, rồi thích nghỉ là nghỉ (do ông bà chiều chuộng), cộng với tuổi nhỏ dễ ốm đau,.. là những nguyên nhân đến việc hổng kiến thức ở trường mầm non, cộng với thói quen tùy tiện khi vào lớp một phổ thông.
– Việc chậm đổi mới, chỉ quan tâm tới việc truyền thụ kiến thức mà chưa thật sát sao trong việc giáo dục nhân cách_ kỹ năng sống cho học sinh của một bộ phận nhỏ giáo viên.

III/ CÁC GIẢI PHÁP TIẾN HÀNH GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1/ Tìm hiểu học sinh của lớp_ xây dựng đội ngũ tự quản:
a/ Tìm hiểu học sinh của lớp:
Để việc quản lý học sinh trong công tác chủ nhiệm lớp được tốt hơn, vào đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát nhỏ trong lớp với các nội dung sau:
Một là: Tìm hiểu số học sinh đi học mẫu giáo và số học sinh không đi học mẫu giáo hoặc đi học không đều, tìm hiểu lý do học sinh không đi học mẫu giáo (Qua gia đình và giáo viên Mầm Non). Cụ thể qua tìm hiểu có 27 em đi học mầm non còn 3 em cũng có đi học nhưng thường xuyên nghỉ học.
Hai là: Kiểm tra khả năng nắm bắt, nhận diện chữ cái mà học sinh đã học trong trường mầm non. Cụ thể qua kiểm tra có: 27 em đi học còn 3 em cũng có đi học nhưng không đều. Khảo sát kiến thức có 9 em nhận diện rất tốt về chữ và số; còn 15 em nhận dạng chữ và số còn nơ mơ; 6 em chưa biết gì về chữ và số.
Ba là: Tìm hiểu tính cách của từng em qua việc cho các em tự mình trình bày một bài múa, bài hát hay đọc thơ, kể chuyện để tự mỗi em bộc lộ tính cách mạnh dạn hay nhút nhát của mình, cụ thể: có 12 em mạnh dạn, tự tin khi đứng trước lớp, 14 em cũng chưa thật sự mạnh dạn, còn 4 em quá nhút nhát.
b/ Xây dựng hội đồng tự quản của lớp.
Hội đồng tự quản?: Hội đồng tự quản là một tổ chức của học sinh, do học sinh thành lập ở từng lớp, dưới sự hướng dẫn của nhà trường thông qua giáo viên chủ nhiệm và cha mẹ các em (hiểu đơn giản theo quan niệm cũ là Ban cán sự lớp). Hội đồng tự quản và các Ban chuyên trách như Ban học tập, Ban văn nghệ, Ban đối ngoại, Ban vệ sinh,… được thành lập theo quy trình dân chủ và tự nguyện do các em học sinh tự đứng ra tổ chức, điều hành và phục vụ lợi ích học tập, giáo dục cho chính các em. Hội đồng tự quản thành lập vì học sinh, bởi học sinh và để đảm bảo cho các em tham gia một cách dân chủ, tích cực vào đời sống học đường; khuyến kích các em có cơ hội tiếp cận một cách toàn diện vào các hoạt động của nhà trường, phát triển tính tự chủ, sự tôn trọng, bình đẳng, tinh thần hợp tác và đoàn kết của học sinh. Hội đồng tự quản là một biện pháp giúp học sinh được phát huy quyền làm chủ trong quá trình học tập giáo dục. Học sinh có điều kiện hiểu rõ quyền và trách nhiệm trong môi trường giáo dục, được rèn các kĩ năng lãnh đạo, kĩ năng tham gia, hợp tác trong các hoạt động ở lớp, trường học. Đồng thời, cũng chuẩn bị cho các em ý thức trách nhiệm khi thực hiện những quyền và bổn phận của mình. Những đánh giá được tiến hành ở những lớp có Hội đồng tự quản cho thấy: học sinh có những tiến bộ rõ rệt về khả năng tự ý thức, lòng tự trọng, tính tự tin, các hành vi cư xử khác, biết tôn trọng và thể hiện sự bình đẳng giữa các học sinh trong lớp, giữa nam và nữ.
Tổ chức cho Hội đồng tự quản hoạt động hiệu quả khi được quan tâm ở hai khía cạnh:
 Quá trình chuẩn bị và tổ chức thành lập Hội động tự quản:
– Dành nhiều thời gian cho việc chuẩn bị nội dung, các tiêu chuẩn về nhân sự, số lượng các Ban hoạt động và các vấn đề khác.
– Tổ chức cuộc họp nội bộ nhà trường với cha mẹ học sinh và họp học sinh trong lớp. Nội dung các cuộc họp nhằm thống nhất các vấn đề có liên quan và thay đổi nhận thức về Hội đồng tự quản học sinh.
– Quá trình thành lập, nhất là giai đoạn diễn ra tranh cử, cần tiến hành đúng quy trình, dân chủ, tự nguyện và hấp dẫn như ngày hội.
 Hướng dẫn Hội đồng tự quản hoạt động hiệu quả:
– Bồi dưỡng các kĩ năng hoạt động cần thiết cho Hội đồng tự quản, các kĩ năng cần có của Chủ tịch và các Trương ban trong hội đồng tự quản.
– Giáo viên vận dụng kinh nghiệm bản thân và đồng nghiệp để hướng dẫn tổ chức các hoạt động cho Hội đồng tự quản học sinh.
– Thường xuyên rút kinh nghiệm về nội dung hoạt động của Hội đồng tự quản với sự tham gia của giáo viên chủ nhiệm, cha mẹ học sinh và học sinh trong lớp.
– Giáo viên thường xuyên giám sát, hỗ trợ Hội đồng tự quản, đồng thời động viện khích lệ học sinh mạnh dạn tham gia ứng cử vào HĐTQ. Giáo viện chủ động trong các hoạt động ứng dụng để hướng dẫn các em làm quen và dễ dàng thực hiện: cần kiên tri, hướng dẫn từng bước, trân trọng từng hoạt động nhỏ của học sinh, đặc biệt là học sinh lớp 1.
– Luôn làm mới HĐTQ về nội dung và cơ cấu tổ chức nhân sự, mỗi năn học cần kiện toàn tổ chức HĐTQ ít nhất 2 lần.
Theo dõi, đánh giá học sinh và ghi nhật kí đánh giá. Khen thưởng kịp thời cuối học kì, cuối năm học và khen thưởng đột xuất những cá nhân có những đóng góp tích cực, hiệu quả tốt cho HĐTQ.
Qua kiểm tra nắm bặt được tính cách của từng em. Cho học sinh lớp tự bầu ra hội đồng tự quản. Đối với lớp 1 công việc này đối với các em con bỡ ngỡ, do vậy giáo viên phần nào cũng phải gợi ý dẫn dắt các em bình chọn thật chính xác. Có chọn đúng sau này giáo viên mới đỡ vất vả. Các em đã bình chọn được 1 bạn Chủ tịch Hội đồng tự quản, 2 bạn Phó chủ tịch Hội đồng tự quản, và 7 bạn trong các Ban Vệ sinh, Chuyên cần, Học tập, Nề nếp, Thư viện, Văn nghệ… Khi các em nhận nhiệm vụ giáo viên giao rõ trách nhiệm cho từng em để các em nắm bắt, chỉ đạo từng hoạt động mà mình phụ trách. Trong tháng đầu tiên của năm học mới giáo viên phải thật sát sao với các em, hướng dẫn các em từng việc làm vì đây là việc làm thực sự mới mẻ với các em. Kết quả đến thời gian này tự các em trong Hội đồng tự quản chỉ đạo mọi hoạt động trong lớp rất tốt, học sinh của lớp mạnh dạn nhiều. Cụ thể: khi có khách vào lớp bạn Chủ tịch Hội đồng tự quản đã cho lớp đứng dậy chào khách và tự giới thiệu với khách về lớp mình…
2/ Xây dựng, hình thành và giáo dục nhân cách cho trẻ thông qua:
a/ Xây dựng không gian lớp học thân thiện_ học sinh tích cực:
Tiếp tục thực hiện sáng tạo các nội dung của hoạt động “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, chú trọng các hoạt động nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt là giáo dục đạo đức, nhân cách và kĩ năng sống cho học sinh. Muốn phong trào “xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” ở mỗi trường đạt hiệu quả thì mỗi giáo viên phải “xây dựng lớp học thân thiện, học sinh tích cực”. Từ đó, tạo ra môi trường học tập thân thiện, an toàn, gần gũi với học sinh, làm cho học sinh thực sự cảm nhận “mỗi ngày đến trường là một ngày vui”. Công việc “xây dựng lớp học thân thiện, học sinh tích cực” được tôi tiến hành từng bước như sau:
 Trang trí lớp học xanh_ sạch_ đẹp_ an toàn:
Lớp học thân thiện phải có hệ thống cây xanh, phải luôn sạch sẽ, ngăn nắp và được trang trí đẹp, đảm bảo tính thẩm mĩ và tính giáo dục cao. Do vậy, tôi hướng dẫn và cùng với học sinh thực hiện các công việc sau đây:
+/ Lựa chọn và trồng các loại cây phù hợp với điều kiện sống trong nhà như: sống đời, ngũ gia bì, vạn niên thanh, bạch mã….để cắm vào các chai nhựa đựng nước treo ở các cửa sổ; trồng các chậu cây nhỏ, phù hợp đặt ở góc môi trường (góc phía trên gần cửa lớp); tư vấn cho PHHS của lớp trang bị thêm các giò “son môi, địa lan,..” treo ở hành lang lớp, trồng một số chậu cây, hoa đặt ở hàng lang phía trước lớp; Ngoài ra, ở phần vườn ươm mà nhà trường đã phân cho mỗi lớp, tôi cùng các em chuẩn bị sẵn một số giò, chậu cây (các loại cây nêu trên) để thực hiện hoán đối vào trong lớp khi cần. Hàng ngày, tôi giao cho Hội đồng tự quản phân công các bạn tưới nước nhặt cỏ cho cây. Vì thế, môi trường lớp tôi luôn xanh, sạch tạo được không khí trong lành cả năm.
+/ Phần tự trang trí tường, tôi và các em học sinh còn dùng màu vẽ hoặc cắt xé dán trang trí lên những mảng tường của lớp những bông hoa, những ý tưởng sáng tạo trong mỗi em để không gian lớp học trở nên đẹp sống động hơn. Thông qua những việc như thế tạo tâm thế, sự phấn khởi.. giáo dục niềm vui, tự hào, sự hăng say và biết trân trọng thành quả do chính bàn tay các em làm lên.
Do vậy, lớp tôi được sự đồng thuận, ủng hộ cao của các bậc phụ huynh, các em học sinh, bộ mặt của lớp tôi đã được thay đổi rất nhiều. Lớp học trở nên xanh hơn, đẹp hơn. Các em học sinh được phát huy khả năng của mình, được cùng tham gia vào xây dựng lớp học và tích cực tham gia vào các hoạt động giáo dục và học tập trong lớp nên các em mạnh dạn hơn, tự tin hơn và có ý thức học tập tốt hơn.
 Xây dựng các góc học tập và thư viện lớp:
Để tạo ra các hoạt động hỗ trợ giúp GV và HS tìm kiếm các nhóm giải pháp và các nguồn lực khác nhau giúp quá trình giảng dạy và học tập nhẹ nhàng và hiệu quả hơn. Góc học tập giúp học sinh thu nhận tiếp cận, tổng hợp kiến thức thuận lợi hơn, thông qua việc sử dụng đồ dùng, tài liệu học tập, thoả mãn các yêu cầu của nhóm học tập (làm việc theo nhóm). Góc học tập của từng bộ môn sẽ tạo ra môi trường học tập gần gũi có tính đặc thù bộ môn, từ đó kích thích sự ham muốn học tập và tìm tòi của học sinh, phát triển năng khiếu trong mỗi em.
Với lớp 1, tôi đã cùng các em tạo ra các góc học tập môn Toán, môn tiếng Việt, môn Tự nhiên và xã hội, môn Đạo đức,….. Ở mỗi góc học tập, tôi đã tận dụng trưng bày các đồ dùng dụng cụ đã được cấp phát, các dụng cụ thí nghiệm, các đồ dùng do bản thân tôi và các em học sinh tự làm, các sản phẩm sáng tạo của học sinh….để trưng bày và phục vụ cho các hoạt động học tập hàng ngày. Trong quá trình giảng dạy, tôi hướng dẫn các em trang trí các góc học tập theo chủ đề, chủ điểm,…nhằm khơi dậy trong mỗi em sự tìm tòi, lòng yêu thích,.. định hướng và phát triển năng lực ở mỗi em.
Thư viện lớp là một công cụ quan trọng là nơi cung cấp các nguồn tài liệu khác nhau (thư viện lớp tôi được đặt ở một cái giá góc dưới bên phải lớp học), trên đó sách truyện và tài liệu tham khảo được huy động sự hỗ trợ của phụ huynh học sinh. Do đó, thư viện lớp tôi luôn có đầy đủ các loại sách, truyện, giúp học sinh tự khám phá, cung cấp các thông tin cần thiết, phục vụ nhu cầu học tập và tự tìm hiểu của học sinh. Thư viện lớp góp phần hình thành phát triển xây dựng thói quen đọc cho HS. Để quản lí hiệu quả, tôi giao Hội đồng tự quản của lớp, phân công cụ thể một em phụ trách thư viện, có trách nhiệm bảo quản theo dõi việc cho các bạn trong lớp mượn trả sách truyện.
 Xây dựng nội quy lớp học:
Trên cơ sở việc học tập năm điều Bác Hồ dạy, nhiệm vụ của học sinh, các nội quy, quy định của nhà trường, tôi cho học sinh trao đổi thảo luận và cụ thể hóa góc nội quy của lớp theo nội dung là những việc “Nên và Không nên” bằng những cụm từ dễ nhớ, dễ thuộc. Từ đó, hàng ngày các em nhớ để thực hiện cho đúng và các em cũng dễ theo dõi nhắc nhở bạn mình thực hiện.
 Xây dựng góc sinh nhật:
Cùng với các em, tôi hướng dẫn các em trang trí, vẽ cắt dán hình bánh sinh nhật và định hình 12 tháng trong năm lên một mảng tường ở vị trí trang trọng mà từ cửa lớp nhìn vào là thấy. Các em lần lượt ghi ngày sinh của mình ứng với các tháng đã định sẵn. Từ đó, hàng tháng lớp sẽ biết được tháng này là sinh nhật những bạn nào và vào những buổi sinh hoạt lớp của tuần đầu tiên trong tháng đó, lớp sẽ tổ chức mừng sinh nhật cho các bạn gắn với những món quà tuy nhỏ nhưng thật ý nghĩa và vui. Từ việc làm đó, tôi đã giúp các en học sinh gần gũi nhau hơn, hiểu nhau hơn và đặc biệt là các em thấy mình được quan tâm hơn. Các em thấy đời sống trường lớp ý nghĩa hơn, thiết thực hơn, gần gũi hơn, trường lớp là nhà của mình, bạn bè trong trường lớp là anh em mình.
b/ Xây dựng, hình thành và giáo dục nhân cách cho trẻ thông qua giờ học:
– “Học mà chơi_ chơi mà học”. Trong giờ học để các em tiếp thu bài được dễ hơn, tôi thường tổ chức các trò chơi, tạo điều kiện để đông đảo học sinh được tham gia:
Ví dụ: Trò chơi “hái hoa dân chủ” trong giờ ôn tập môn TNXH, trò chơi đóng kịch phân vai trong giờ Đạo đức (luyện tập), chơi “ai nhanh hơn” trong giờ Toán và luyện giọng đọc tốt trong giờ Tiếng việt qua “ai là phát thanh viên”..
Những kiến thức cơ bản học sinh được học dưới dạng trò chơi, học sinh thấy hứng thu và tiếp thu kiến thức nhanh hơn; đồng thời, tôi nhận thấy thông qua các trò chơi tính cách các em được bộc lộ rõ ràng hơn. Qua đó, tôi dễ dàng nhận ra tính cách của từng em để có biện pháp hỗ trợ học tập và giáo dục phù hợp. Song song với việc tổ chức các tiết học vui, tạo không khí cho học sinh tôi quan tâm:
– Đổi mới phương pháp và hình thức dạy học. Tăng cường hoạt động thực hành. Chuẩn bị tốt, đầy đủ phương tiện đồ dùng dạy học của giáo viên và dụng cụ học tập của học sinh, sử dụng hiệu quả và tăng cường việc cải tiến, tự làm đồ dùng dạy học.
– Chú trọng bồi dưỡng kiến thức thực tế cho học sinh thông qua việc mở rộng không gian học tập. Tích hợp giáo dục kỉ luật tích cực, kĩ năng sống, giáo dục môi trường, an toàn giao thông, tiết kiệm năng lượng, biển đảo,… thêm yêu quê hương đất nước.
– Căn cứ tình hình thực tế của địa phương, của nhà trường, bản thân luôn có sự trao đổi, thống nhất có sự điều chỉnh nội dung dạy học cho phù hợp với thực tế lớp học và điều kiện địa phương; Tuy nhiên, việc điều chỉnh phải đảm bảo đánh giá chuẩn về kiến thức, kĩ năng theo quy định. Đối với lớp 1: Thực hiện nghiêm túc qui trình dạy học (theo thiết kế), không được tự ý cắt xén nội dung; linh hoạt trong khi dạy, điều chỉnh theo đối tượng, năng lực tiếp thu của học sinh; giáo viên phải ghi nhật ký giảng dạy và thường xuyên trao đổi chuyên môn với đồng nghiệp.
– Tổ chức xây dựng các nề nếp cho học sinh: Ngay từ đầu năm, tôi đã hướng dẫn thật tỉ mỉ để các em thực hiện tốt các nề nếp mà nhà trường đã quy định như nếp chào hỏi, xếp hàng ra vào lớp, nếp sinh hoạt và truy bài đầu giờ…Tôi không phó mặc sự quản lý lớp cho HĐTQ mà chỉ thông qua các em để nắm bắt tình hình khi giáo viên không có trên lớp.
Đầu năm học, các em chưa biết đọc, biết viết nên tôi phát cho các em thời khoá biểu hướng dẫn các em về dán ở góc học tập và nhờ bố mẹ hướng dẫn sắp xếp sách vở trước khi đến lớp, tôi hướng dẫn kĩ về sách vở, đồ dùng học tập của từng môn, giúp các em nhận biết môn học qua bìa sách và nội dung của bài học.
Để dạy một tiết học đủ thời gian 35 phút thật khoa học, hiệu quả tôi đã đưa các em vào nề nếp làm theo hiệu lệnh của mình.
Ví dụ: Tôi quy định với các em các kí hiệu khi sử dụng đồ dùng học tập: B: Bảng; V: Vở; S: Sách…
Trong giờ tiếng Việt, khi đánh vần đọc trơn tôi chỉ từng chữ ghi âm hay cả tiếng từ. Khi yêu cầu học sinh phân tích tôi đặt ngang thước dưới tiếng, từ cần phân tích. Học sinh thực hành theo dãy, nhóm…
Trên thực tế, do gia đình không quan tâm nên nhiều em đến lớp còn thiếu hoặc quên sách vở và đồ dùng học tập. Vì vậy trong giờ học các em không hoạt động học tập làm ảnh hưởng đến các bạn xung quanh. Do đó, tôi đã hình thành, tạo cho các em thói quen giờ nào việc ấy ngay từ đầu năm Trong mỗi giờ học để dảm bảo không khí “học mà vui vui mà học” giáo viên cần hướng dẫn cho các em có nếp giơ tay phát biểu ý kiến, nếp chăm chú nghe giảng hay ý thức tham gia các trò chơi học tập, hoạt động nhóm…
Rèn nếp học tập ở nhà cũng là một việc rất quan trọng trong việc hình thành nề nếp học tập cho học sinh lớp 1. Tuy các em đã được học 2buổi/ ngày, kiến thức các môn học đã được hoàn thành ngay trên lớp nhưng chúng ta vẫn cần rèn cho các em nếp tự học và soạn sách vở, đồ dùng học tập. Điều này tôi thống nhất với cha mẹ học sinh qua buổi họp đầu năm. Việc giữ gìn sách vở, đồ dùng học tập cũng ảnh hưởng tới chất lượng học tập của các em. Vì thế, ngay trong từng tiết học tôi đã hướng dẫn cách đặt tay khi viết, cách để đồ dùng sách vở thật khoa học để không bị nhàu nát, quăn góc hay hỏng hoặc mất.
– Thực hiện đánh giá học sinh theo hướng động viên, khuyến khích, ghi nhận sự tiến bộ hàng ngày của từng học sinh, giúp học sinh cảm thấy tự tin và vui thích với các hoạt động học tập. Tăng cường đánh giá thường xuyên bằng nhận xét, trong đó chú trọng nhận xét cụ thể của giáo viên về những nội dung học sinh đã thực hiện được và những nội dung chưa thực hiện được. Đặc biệt, đối với lớp 1, khuyến khích giáo viên trên lớp chỉ nhận xét, không chấm điểm vào vở của học sinh, không thông báo điểm số đến học sinh và gia đình học sinh; giáo viên tuyệt đối không có biểu hiện so sánh giữa các học sinh, chê trách học sinh trong bất kỳ hoàn cảnh nào, với bất kỳ động cơ nào.

c/ Xây dựng, hình thành và giáo dục nhân cách cho trẻ thông qua các giờ hoạt động tập thể.
Sau những giờ học căng thẳng và mệt mỏi thì hoạt động ngoài giờ là giờ các em được vui chơi thoải mái, sau khi các em tham gia bài thể dục giữa giờ và bài ca múa hát tập thể của trường thì các em chơi tự do, lúc này các em chơi những gì mà từng học sinh thích chơi. Chính vì vậy, mà đã nảy sinh bao nhiêu vấn đề làm cho người làm công tác chủ nhiệm phải hết sức quan tâm, tìm ra những giải pháp phù hợp để giờ chơi thực sự trở thành một giờ chơi lành mạnh và bổ ích. Qua nhiều năm làm công tác chủ nhiệm tôi đã xây dựng cho mình kế hoạch để hướng dẫn học sinh có giờ chơi thật thoải mái, lành mạnh bổ ích cụ thể như sau:
Ngay từ đầu năm, tôi đã kết hợp với nhà trường và ban phụ huynh của lớp chuẩn bị cho các con một số vật dụng cần thiết phục vụ cho giờ chơi như: Cầu lông, cờ vua, một mảnh vải nhỏ để các em chơi bịt mắt bắt dê, dây nhảy, quả cầu, giấy vẽ, bút màu, phấn màu, bộ xếp hình, que tính, sách, báo, truyện, những viên sỏi trắng để chơi …. Đến giờ chơi, tôi cho học sinh tự chọn các vật dụng để phục vụ trò chơi mà con thích. Với trò chơi mà học sinh chưa biết cách chơi, tôi đã hướng dẫn và chơi cùng học sinh. Thông qua các trò chơi như vậy, các em được thả tâm hồn mình vào các trò chơi, các em say sưa hứng thú, thỏa sức sáng tạo, thư giãn đầu óc sau các giờ học. Qua đó, các em được giao lưu, học hỏi và hiểu biết thêm nhiều điều mới lạ. Qua đó, từ nhận thức đến nhân cách của học sinh được dần hình thành và phát triển theo một chiều hướng tốt tích cực.
Ngoài ra, cho các em tham gia các hoạt động tập thể theo các chủ điểm của từng tháng:
VD: Chủ điểm 5: Yêu quý mẹ và cô giáo (Thời gian thực hiện: Tháng 3).
a) Yêu cầu giáo dục
– Hiểu ý nghĩa ngày Quốc tế Phụ nữ 8 – 3.
– Giáo dục cho học sinh lòng kính trọng, quý mến mẹ và cô giáo_ hai người mẹ hiền, người phụ nữ Việt Nam.
– Biết cách thể hiện sự quý trọng người phụ nữ Việt Nam.
b) Các hình thức hoạt động
– Phát động phong trào thi đua lập thành tích mừng ngày Quốc tế Phụ nữ.
– Ca hát, múa, kể chuyện…. về mẹ và cô giáo.
– Tổ chức kỉ niệm ngày Quốc tế Phụ nữ : 8 – 3. Làm hoa tặng mẹ và cô trong ngày 8/3. Nghe kể chuyện về ngày quốc tế phụ nữ 8/3.

3/ Tạo niềm vui đến với trẻ
a/ Thân thiết tình thầy trò
Tạo đựơc tâm thế cho học sinh trong buổi học là vô cùng cần thiết. Hiểu điều đó nên tiết đầu tiên tôi không bao giờ quở trách, trách phạt bất cứ một học sinh nào. Dù hôm đó học sinh đi muộn hay quên đồng phục hoặc quên sách, vở, thiếu phần chuẩn bị … Nếu nặng lời mắng mỏ sẽ đem lại cho học sinh đó nỗi buồn, cảm giác có tội sẽ đè nặng, phá tan sự tiếp thu của học sinh trong cả buổi học hôm ấy. Chính bản thân giáo viên cũng bị ức chế, buồn bực, tức tối trong suốt giờ giảng của mình. Để tránh tình trạng trên, sáng sáng khi bước chân vào lớp tôi thường nghĩ ra một câu chào, một câu đùa hóm hỉnh hoặc sau lời chào là một vài cử chỉ ân cần. Khi thì sửa lại tóc cho em này, lúc lại cài áo cho em kia .v.v… Để sao cho học sinh cảm nhận được một ngày học mới bắt đầu hết sức nhẹ nhàng và ấm áp. Đến cuối ngày học hôm ấy, tôi cho các em bình chọn ai học ngoan và ai tiến bộ nhất trong ngày, lúc đó là lúc mà tôi nhắc nhở khuyết điểm mà các cháu học sinh hồi sáng mắc phải. Nếu lỗi cháu đó mắc phải mà nặng, cháu sẽ tự đứng trước lớp tìm xem mình sai ở chỗ nào rồi hứa với tập thể lớp, với cô giáo sẽ sửa những sai lầm đó.
Cả ngày học sinh ở trường, cô giáo trong thời gian đó thay vai trò người mẹ ở nhà của các em. Gặp khi học sinh bị sốt, mệt hay đau bụng trong tiết học tôi không làm ngơ mà ân cần hỏi han bình tĩnh xử lý: cần dùng dầu thì xoa cho các em chút dầu, khi thì pha cho các em cốc nước, có em mệt quá không đỡ tôi đưa cháu xuống phòng y tế hoặc thông báo cho gia đình cháu đến để trao đổi tư vấn để phụ huynh có hướng giải quyết nhanh. Thực tế trong lớp tôi chủ nhiệm, thời gian đầu năm học có một em học sinh suốt ngày chảy mũi tanh hôi, bản thân tôi đã gặp gỡ, trao đổi với gia đình, lúc đầu gia đình họ tự ái không hài lòng vì họ cho là giáo viên chê con họ. Song tôi vẫn kiên trì khuyên gia đình nên đưa con đi khám, cuối cùng gia đình học sinh đó đã hiểu và đưa cháu đi khám ở bệnh viện Bạch Mai_ Hà Nội. Kết quả bác sĩ đã lấy trong mũi học sinh ra một cục kẹo cao su. Từ đó, em đã khỏi bệnh, gia đình rất phấn khởi tìm tới tôi cảm ơn và chia sẻ: “Cô thực sự là người mẹ hiền thứ hai của cháu”.
b/ Khen thưởng động viên
Cuối tuần trong tiết sinh hoạt lớp, học trò lớp tôi rất thích và háo hức chờ đón. Học sinh được tự do bình bầu và được tôi ghi nhận. Những học sinh được cô khen vì tiến bộ từng mặt: học tập, kỷ luật hay chỉ là có chữ viết tiến bộ hơn tuần trước đều được phát phần thưởng. Vào những ngày lễ tết hoặc sinh nhật của từng em, học sinh cũng nhận được những món quà nhỏ nhưng nó đã thực sự mang đến cho các cháu niềm vui khi đến trường:
Ví dụ: Tết Nguyên đán tôi mừng tuổi cho các cháu một quyển vở kèm theo những lời chúc: Em gặp may mắn.
Ngày 8 tháng 3 để các học sinh gái có ý thức về giới tính của mình, tôi hướng dẫn các học sinh nam làm một món quà tặng cho các bạn gái cùng bàn. Ngoài ra, tôi còn cho cả lớp vẽ, cắt thành hoa có ghi điểm 9, điểm 10 về tặng bà, tặng mẹ.
Những món quà tuy nhỏ nhưng đã thu được những giá trị tinh thần lớn bởi tôi đọc thấy trên gương mặt của các em sáng lên niềm hân hoan với những nụ cười hồn nhiên của con trẻ.
Mang niềm vui đến cho con trẻ từ những việc làm bình thường như vậy nhưng cũng khiến cho học sinh cảm thấy tình thương yêu và sự quan tâm săn sóc của giáo viên với các em. Từ sự cảm nhận này khiến cả phụ huynh lẫn học sinh đều cảm thấy tin tưởng ở trường lớp, đặc biệt là công giáo chủ nhiệm. Từ đó, phụ huynh gửi gắm các em cho nhà trường, cho giáo viên chủ nhiệm mà hoàn toàn yên tâm vững dạ.
4/ Giáo viên chủ nhiệm cần xây dựng tốt mối quan hệ khăng khít, phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nhà trường:
Xây dựng tốt mối quan hệ chuẩn mực khăng khít, phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nhà trường làm tốt công tác giáo dục, hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh lớp chủ nhiệm:
 Quan hệ với Ban giám hiệu:
– Tiếp nhận chủ trương, kế hoạch và những định hướng cho từng hoạt động cụ thể của BGH và HĐGD nhà trường.
– Xây dựng kế hoạch và chỉ đạo triển khai thực hiện kế hoạch cho phù hợp với tình hình của lớp chủ nhiệm
– Đề đạt nguyện vọng chính đáng của học sinh lớp chủ nhiệm với BGH và HĐGD nhà trường, đề xuất các phương án giải quyết .
– Phản ánh những ý kiến nguyện vọng của gia đình học sinh về sự đồng tình hay phản bác đối với những chủ trương, quy định của trường để cấp trên có sự xem xét, giải đáp hoặc sửa đổi cho phù hợp với thực tế.
– Báo cáo theo định kì hoặc đột xuất (nếu có) với BGH và HĐGD.
 Quan hệ với giáo viên khác:
– Bàn bạc, thống nhất với những thành viên thuộc tổ về nội dung, kế hoạch, cách thức, tiến độ các hoạt động.
– Thông báo hoạt động của lớp chủ nhiệm và đề xuất sự giúp đỡ, phối hợp đối với một số công việc nhằm tạo phong trào, phát huy sức mạnh của cộng đồng khối lớp.
– Chia sẻ kinh nghiệm, giúp đỡ lẫn nhau tạo môi trường đồng cảm, đồng trách nhiệm đối với thế hệ trẻ
 Quan hệ với giáo viên bộ môn:
– Liên hệ mật thiết với giáo viên bộ môn để nắm bắt được tình hình học tập của mỗi học sinh.
– Thông báo cho giáo viên bộ môn tình hình của lớp, những học sinh có năng lực học tập tốt, những học sinh có năng lực học tập yếu kém, những học sinh có phẩm chất đạo đức cần phải uốn nắn.
– Phối hợp với giáo viên bộ môn tổ chức các hoạt động ngoại khóa phục vụ hoạt động dạy và học.
– Tổ chức học sinh trong lớp thăm hỏi, động viên các thầy cô giáo dạy tại lớp nhân các ngày lễ hoặc những thầy cô giáo có hoàn cảnh khó khăn.
 Với các đoàn thể trong trường:
Ngoài việc các em học tập kiến thức văn hoá thì việc các em tham gia các hoạt động của Sao Đội là điều tất nhiên. Thông qua những hoạt động của Sao Đội, các em sẽ rèn luyện thêm nhiều phẩm chất của người học sinh cần có như là: tình đoàn kết, lòng nhân ái, tinh thần cầu tiến….phối hợp với Đội thiếu niên tiền phong là giáo viên chủ nhiệm, hiểu biết về hoạt động Sao Đội của các em, luôn động viên nhắc nhở uốn nắn các em trong các hoạt động của Sao Đội.
Không chỉ thế, Đội còn có biểu điểm thi đua hàng tuần giữa các lớp. Tôi luôn nắm chắc biếu điểm này làm cơ sở đưa ra biểu điểm thi đua cho phù hợp với trách nhiệm của mình. Trong biểu điểm thi đua có mức khen thưởng và kỉ luật. Để làm tốt được điều này cần có sự kết hợp theo dõi của các tổ trưởng, lớp trưởng, lớp phó, căn cứ vào sổ theo dõi tuần. Mỗi tuần tổng kết, một lần tôi luôn dành những lời khen tặng học sinh tích cực, cho học sinh tự nhìn nhận những vi phạm để các em ghi nhớ và có hướng khắc phục, phấn đấu; tuy nhiên việc khuyến khích, động viên để các em có hướng phấn đấu vươn lên là chủ yếu.
 Quan hệ với Phụ huynh học sinh:
– Liên lạc với phụ huynh ngay khi năm học bắt đầu, lập hồ sơ học sinh.
– Lập danh sách số điện thoại chung của các gia đình học sinh gửi cho các giáo viên của lớp.
– Đưa ra danh sách những đồ dùng, sách vở và dụng cụ cần thiết mà các em phải mang theo vào mỗi ngày đến lớp.
– Họp phụ huynh theo định kì. Ngoài ra, Tôi thường xuyên liên hệ, trao đổi với phụ huynh để cùng phối hợp giáo dục, động viên giúp đỡ kịp thời từng học sinh qua điện thoại, “Sổ tự theo dõi hàng ngày” hoặc qua sổ liên lạc nhất là đối với những học sinh chậm phát triển để nâng cao chất lượng học tập, rèn luyện phát triển trí tuệ, năng lực và phẩm chất cho các em. Cụ thể là:
+/ Trong mỗi năm học, tôi thực hiện định kỳ để thông báo cho phụ huynh biết kết quả học tập, rèn luyện của các em qua sổ liên lạc, điện thoại, qua trao đổi trực tiếp phản ánh những tiến bộ, những nhược điểm cơ bản của từng học sinh. Tôi yêu cầu phụ huynh sau khi xem phiếu liên lạc…. cần ghi rõ ý kiến của mình về kết quả phấn đấu của con em, về những lời nhận xét đánh giá của giáo viên chủ nhiệm. Bên cạnh đó, phụ huynh cần thông báo thêm tình hình học tập, tu dưỡng rèn luyện của học sinh ở gia đình.
+/ Ngoài ra, tôi còn thường xuyên liên hệ với phụ huynh học sinh thông qua điện thoại liên lạc. Khi thấy bất kỳ một học sinh nào có hiện tượng bất thường về học tập cũng như hành vi, ý thức, tôi dành thời gian gọi điện về gia đình để tìm hiểu nguyên nhân, để từ đó thống nhất, phối hợp với phụ huynh học sinh để có biện pháp kịp thời.
+/ Tổ chức họp phụ huynh đình kỳ 3lần/năm theo kế hoạch cụ thê của nhà trường. Thông qua các lần họp phụ huynh tôi lại có cơ hội bày tỏ cách làm việc của mình trên lớp, thông báo cụ thể tình hình của từng em về mọi mặt để phụ huynh thấy ưu điểm và tồn tại của con em mình đồng thời tôi cũng lắng nghe để hiểu những tâm tư nguyện vọng của họ cùng nhau bàn bạc thống nhất cách giáo dục con em mình cho phù hợp.
+/ Trong một năm học, tôi cố gắng dành nhiều thời gian để đến nhà học sinh có các hoàn cảnh khó khăn, hoàn cảnh đặc biệt để thăm hỏi, động viên và trao đổi trực tiếp với gia đình về các biện pháp giáo dục và hướng dẫn các em phương pháp học ở nhà. Với những em có hoàn cảnh khó khăn, tôi kiến nghị lên nhà trường đề nghị giúp đỡ. Tham mưu với chi hội phụ huynh xây dựng quỹ lớp để khen thưởng các em có thành tích trong học tập và tu dưỡng, tổ chức thăm hỏi động viên những học sinh ốm đau, bệnh tật, hay có hoàn cảnh khó khăn…. Sau mỗi kì, thời gian cuối mỗi buổi họp PHHS, tôi mời phụ huynh các em học sinh có kết quả học tập, rèn luyện chưa đạt để trao đổi, tìm hiểu nguyên nhân phối hợp để có biện pháp giúp đỡ kịp thời.
+/ Song song với những việc nêu trên, tôi đã làm tốt công tác tuyên truyền, vận động tham mưu với chi hội phụ huynh để khơi gợi sự đồng thuận nhất trí cao trong tập thể phụ huynh về việc ủng hộ về cả vật chất và tinh thần trong việc tham gia “Xây dựng đổi mới không gian lớp học” làm thay đổi cảnh quan lớp học và tạo điều kiện tốt nhất cho các em học tập.
5/ Xây dựng nền nếp, thói quen trong sáng tích cực cho học sinh:
 Nề nếp tích cực:
– Nề nếp là những thói quen, tập tục giúp lưu giữ, duy trì được cái hay.
– Công việc này hết sức quan trọng, đòi hỏi rất nhiều đến trí tuệ, nghệ thuật của giáo viên. Khi xây dựng nền nếp lớp học, giáo viên không nên nóng vội mà phải kiên trì, tôn trọng, khuyến khích những học sinh đã đạt được dù là nhỏ nhất và nắm bắt tâm lí từng đối học sinh để xây dựng nề nếp ngay từ đầu năm học và phải được thường xuyên duy trì nếu không thì khó mà hình thành thói quen cho học sinh.
Ví dụ : Vào đầu giờ mỗi ngày, Hội đồng tự quản làm việc để tổ chức các hoạt động: ca múa hát đầu giờ, nghe bao cáo để nắm bắt tình hình học tập, công tác chuẩn bị cho một ngày học mới, kiểm tra công tác vệ sinh…
– Dần dần đưa các em vào nề nếp tự quản, tự học khi giáo viên không thực hiện vai trò chủ thể của quá trình dạy học nói chung, truyền thụ kiến thức nói riêng. Trên cơ cở đó, giáo viên yên tâm quản lý học sinh theo hướng quan sát từ xa. Đây là nền nếp mang tính trật tự kỉ luật cần được duy trì suốt năm học.
 Giáo dục đạo đức trong sáng:
– Đạo đức là những phép tắc được xã hội thừa nhận, qui định quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân với tập thể.
– Giáo dục đạo đức cho học sinh là một quá trình xuyên suốt, liên tục, đòi hỏi sự nỗ lực thường xuyên của giáo viên. Giáo viên phải tác động, điều chỉnh học sinh mọi lúc, mọi nơi để hình thành thói quen đạo đức, trên cơ sở đó mà xây dựng ý thức, tình cảm đạo đức cho các em. Có như thế, những bài học đạo đức mới trở nên sinh động, mới thực sự ăn sâu vào tâm hồn của các em. Đó là cơ sở ban đầu hình thành năng lực giá trị đạo đức, biết phân biệt điều nên làm, điều nên tránh ở từng em.
– Giáo dục cho các em làm theo 5 điều bác hồ dạy thiếu niên nhi đồng. Phát động phong trào “nói lời hay, làm việc tốt”, “nhặt được của rơi trả lại người đánh mất”,…
– Cách xưng hô người lớn phải đúng như: “thưa cô, thưa thầy, vâng ạ…” hay khi đưa hoặc nhận một vật gì từ tay người lớn phải bằng hai tay. Biết nói lời cảm ơn khi người khác quan tâm giúp đỡ, và nói lời xin lỗi khi làm phiền người khác….
– Dựa trên tình hình thực tế của lớp, giáo viên tìm hiểu nắm bắt tâm tư tình cảm của từng học sinh, để hình thành cho các em có phẩm chất đạo đức tốt như kính trọng thầy cô giáo, ông bà cha mẹ, lễ phép với người lớn, yêu thương đoàn kết giúp đỡ bạn bè, có lòng yêu quê hương đất nước. Hướng cho học sinh tham gia các hoạt động “Đền ơn đáp nghĩa”, “ Uống nước nhớ nguồn” làm việc thiện …
– Ngoài ra, tôi còn động viên khuyến khích các em tự tin trong giao tiếp với thầy cô, bạn bè, người thân và người khác.
– Ngay từ đầu năm, tôi đưa ra yêu cầu thi đua giữa các tổ và các cá nhân để các em cùng thi đua phấn đấu. Trong thi đua, tôi luôn khen, nhắc nhở kịp thời với tiêu chí khen, động viên là chính.
– Tôi luôn giáo dục các em có ý thức giữ gìn môi trường xung quanh sạch đẹp, hướng dẫn các em cụ thể từ việc đi vệ sinh đúng nơi quy định, thực hiện 1 phút sạch trường, bỏ rác đúng chỗ, sử dụng tiết kiệm điện, nước.
– Tôi thiết lập sổ nhật kí giáo viên chủ nhiệm để ghi ưu điểm, tồn tại về tính cách, hoạt động, sự tiến bộ… của từng học sinh để có biện pháp giáo dục kịp thời.
– Cuôi năm học: 100% học sinh lớp tôi chủ nhiệm đều thực hiện tốt nhiệm vụ của người học sinh, các em ngoan, hồn nhiên, vâng lời thầy cô và người lớn, tự tin trong giao tiếp.
– Xếp loại thi đua nề nếp hàng tuần lớp tôi chủ nhiệm luôn đứng trong tốp đầu.
 Thói quen trong sáng:
– Thói quen là nền nếp quen, khó thay đổi.
– Để giáo dục thói quen tự học cho học sinh, trước hết giáo viên phải tìm hiểu xem khi học sinh tự học cần có những điều kiện gì? Các em cần biết cách học và có sự say mê, hứng thú học tập. Khi biết cách học, tức là các em biết cách tự làm việc độc lập. Khi có niềm say mê hứng thú học tập các em sẽ tự giác học. Biết cách học với tinh thần tự giác, say mê học tập, chắc chắn các em sẽ có tính tự học.
– Muốn giúp các em phát triển niềm say mê học tập, hứng thú học tập, giáo viên cần:
+/ Tạo nên phong trào thi đua học tập trong lớp, thi đua giữa các tổ, tổ chức các đôi bạn học tập… Khi phân các đôi bạn học tập, giáo viên nên sắp xếp các em có năng lực khác nhau, chênh lệch nhau vừa phải.
Ví dụ: học sinh có năng lực giỏi – học sinh có năng lực khá, học sinh có năng lực khá – học sinh có năng lực trung bình, học sinh có năng lực trung bình – học sinh có năng lực yếu.
+/ Vận dụng những biện pháp thiết thực nhất, phù hợp nhất để xây dựng cho học sinh ý thức làm việc tốt ngay từ ban đầu, có thói quen tự giác, tích cực chủ động trong học tập để nâng cao hiệu quả trong giáo dục.
 Làm tốt công tác chủ nhiệm:
– Chủ nhiệm là người đứng đầu và chịu trách nhiệm chính trong một cơ quan, một tổ chức. Ở lớp học cũng vậy.
– Muốn lớp mình có nề nếp tốt thì giáo viên chủ nhiệm phải lên kế hoạch cho cả năm học, từng tháng, từng tuần dựa trên kế hoạch của nhà trường. Xây dựng được nề nếp tự quản, bầu chọn được đội ngũ cốt cán tự quản phân công quán triệt rõ nhiệm vụ cho từng em, đồng thời cho các em tự đăng kí các danh hiệu thi đua và biện pháp thực hiện, từ đó có phương hướng chỉ đạo để học sinh thực hiện tốt.
– Mỗi tuần, sau các hoạt động văn hóa, văn nghệ, tôi dành thời gian nhận xét đánh giá những mặt mạnh về tình hình học tập cùng với nề nếp, tác phong, vệ sinh của từng em ; đồng thời, để các em còn sai sót tự rút kinh nghiệm và khắc phục trong tuần tiếp theo. Ngoài ra, còn giáo dục các em phải: “Nói lời hay, làm việc tốt”, “Gọi bạn xưng mình”. Thường xuyên giáo dục các em có tính tự giác, chấp hành tốt nội quy của lớp, của trường. Vì vậy, muốn các em thực hiện tốt, nghiêm túc thì người giáo viên chủ nhiệm lớp phải thực sự gương mẫu về mọi mặt, phải là: “Tấm gương sáng cho học sinh noi theo”, nói phải làm, đề ra phải thực hiện và khen chê đúng mực. Vì học sinh lớp1 các em đang ở lứa tuổi nhỏ nên giáo dục phải nhẹ nhàng, nghiêm túc, nghiêm khắc nhưng cởi mở gần gũi độ lượng, luôn vị tha đối với các em biết nhận lỗi và sửa lỗi, tuyệt đối không được dùng lời nói, hành động là tổn thương các em..
– Để đảm bảo duy trì được sĩ số, tỉ lệ chuyên cần đến lớp thì người giáo viên phải có lòng nhiệt tình, không ngại khó, ngại khổ, nếu cần thường xuyên tới gia đình làm công tác tư tưởng và động viên học sinh trong các hoạt động. Đây là một việc làm đòi hỏi giáo viên phải kiên trì, thực hiện phản ánh kịp thời với Ban giám hiệu, Công đoàn, các tổ chức trong nhà trường trong việc duy trì nền nếp chuyên cần; đồng thời nếu cần phải biết phối kết hợp với các ban ngành ngoài nhà trường như: các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể địa phương trong việc huy động và duy trì nền nếp chuyên cần của trường lớp.
– GVCN phải quan tâm đến từng học sinh, tìm hiểu hoàn cảnh gia đình của từng em để phát hiện kịp thời những đối tượng học sinh nghèo tiềm ẩn các nguy cơ, từ đó tìm ra giải pháp cụ thể để cùng với BGH, BCH Hội PHHS, chính quyền địa phương, các ban ngành đoàn thể vận động, hỗ trợ, giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất cho các em đi học đều, yên tâm học tập tu dưỡng.
– Thực hiện tốt các các HĐNGLL giúp học sinh nhận thức đúng về thái độ học tập, hứng thú học tập, góp phần ngăn ngừa, hạn chế các nguy cơ.
– Khi dạy trên lớp tôi thường lồng ghép vào các tiết học nêu những gương “người tốt việc tốt” để khích lệ các em.
6/ Trao đổi, chia sẻ với phụ huynh học sinh
Học sinh rất thích được điểm tốt, những lời khen hay và là điều mà phụ huynh nào cũng luôn mong muốn: Sau mỗi buổi đón con ở trường về lại được con mình khoe có những điểm tốt kèm những lời cô khen, những chuyện vui ở lớp. Chỉ cần có thế thôi cũng đủ để bố mẹ thêm vui và vợi đi bao sự nhọc nhằn của cả một ngày lao động vất vả. Cũng chỉ cần có thế mà không khí gia đình vui vẻ hơn, bữa cơm gia đình hôm ấy cũng thấy ngon và hạnh phúc hơn.
Nhưng thực tế, không phải bao giờ các cháu cũng học bài và làm bài chuyên cần để cô giáo sẵn lòng khen. Nhiều khi kiểm tra bài, học sinh vì một lý do nào đấy không đủ bài tôi vẫn nghiêm khắc cho điểm kém nhưng vẫn ôn tồn mở lối cho học sinh. Nhắc cho học sinh cố gắng ở lần kiểm tra sau. Cách làm này đã làm mất đi sự thất vọng trong lòng các em và mở ra cho các em hy vọng để cố gắng ở lần sau. Tạo sự “hào hứng xung phong học tập, ý thức xây dựng bài và được kiểm tra lại vào tiết học tiếp”.
IV/ HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Trên đây, tôi đã trình bày một số việc làm trong công tác chủ nhiệm của mình để giúp học sinh có nhiều niềm vui khi đến trường. Những việc đó thành hình khó đặt tên, càng không thể diễn ra trong khoảng thời gian nhất định nào cả. Tôi thực hiện nó lúc có thể được, khi tiếp xúc với học sinh. Trẻ đến trường trong niềm vui, là một khái niệm rộng do tác động của nhiều yếu tố: Con người, môi trường, hoàn cảnh …vv… nhưng theo chủ quan tôi nghĩ mình đã góp phần không nhỏ trong niềm vui ấy của học sinh. Học sinh của lớp tôi đi học với tâm trạng rất thoải mái và hứng khởi. Tuyệt nhiên không có những học sinh phải co kéo, phụng phịu níu tay cha mẹ trước buổi đi làm. Thầy cô bước vào lớp các cháu không có vẻ sợ hãi, rụt rè. Trái lại, nhiều cháu đón tôi với nụ cười tươi tắn trên môi mỗi buổi tới trường vì dường như các em đã cảm nhận được mỗi ngày đến trường là một ngày vui_ Các em được đi học chứ không phải là phải đi học. Giao tiếp giữa cô và trò hoà hợp thân ái, học sinh nhận thấy cô giáo mình thật gần gũi nhưng không bao giờ bỡn cợt với cô. Quan sát học sinh trong giờ chơi tôi cũng thấy học sinh cư xử với nhau hoà nhã, hiện tượng nói tục, chửi bậy hạn chế rất nhiều và dường như không có. Học sinh bớt đi những lời nói thô lỗ, cục cằn gay gắt, gây lỗi với bạn, các cháu thường xuyên nhận ra và tự giải quyết một cách nhanh chóng không làm phiền lòng giáo viên như những ngày đầu nhận lớp.
Bản thân tôi nghĩ rằng những việc làm nho nhỏ của mình đã góp phần tích cực trong giai đoạn đầu hình thành và phát triển nhân cách của học sinh mình chủ nhiệm trong năm đầu cấp tiểu học này. Điều quan trọng tôi đã làm được một việc đó là: Làm cho học sinh cảm thấy yêu trường, yêu lớp, mỗi học sinh đều gắn bó tình thân, vui vẻ_ đoàn kết tích cực. Xây dựng trong lòng các em niềm vui đến trường “mỗi ngày đến trường là một niềm vui”. Đó là những dấu ấn của những ngày đầu, năm đầu cắp sách tới trường sẽ cùng các em đi suốt cuộc đời.

V/ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Thứ nhất, giáo viên chủ nhiệm vừa là người thầy, vừa là người bạn thân thiết của mỗi học sinh_ nhất là học sinh lớp 1. Giáo viên chủ nhiệm phải là người giữ vai trò quan trọng trong việc định hướng phát triển nhân cách của các em. Đồng thời, giáo viên chủ nhiệm chính là người gần gũi, sát sao và kề cận nhất với mỗi học sinh của mình. Giáo viên chủ nhiệm phải luôn nhạy cảm nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng của mỗi học sinh. Để làm được điều đó, đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm phải luôn tạo điều kiện để mỗi học sinh bày tỏ, xẻ chia những băn khoăn, thắc mắc, những khó khăn trong học tập cũng như trong cuộc sống. Sự khô khan, cứng nhắc, dập khuôn trong công tác chủ nhiêm chỉ khiến các em dễ nảy sinh tâm lý chán nản, chống đối, thiếu gắn bó với thầy cô và các bạn dẫn đến sự lệch lạc trong quá trình phát triển nhân cách. Thứ hai, giáo viên chủ nhiệm phải biết kiên trì, bình tĩnh, kiềm chế và mềm mỏng. Kiên trì trong việc gần gũi, chia sẻ với mỗi học sinh để trở thành điểm tựa tinh thần đáng tin cậy cho các em. Bình tĩnh trước mọi tình huống, hoàn cảnh để có cách xử lý chủ động, linh hoạt, phù hợp, đặc biệt lưu ý những hoàn cảnh, những tình huống bất ngờ xuất phát từ những học sinh có cá tính riêng. Kiềm chế và mềm mỏng để hành vi ứng xử của bản thân với học sinh không bị chi phối bởi những cảm xúc nhất thời, tránh lớn tiếng, nặng lời, thóa mạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm các em,…
Thứ ba, giáo viên chủ nhiệm cũng cần thẳng thắn nhìn nhận sai lầm hoặc thiếu sót của mình. Điều này, đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm phải thường xuyên tự nhìn nhận, kiểm điểm, nhận biết những hạn chế của mình để cố gắng hoàn thiện bản thân. Song song với đó là tinh thần cầu tiến, ham học hỏi. Học hỏi từ sách vở, từ đồng nghiệp, từ cuộc sống xung quanh và từ chính mỗi học sinh của mình. Chỉ như vậy, người giáo viên chủ nhiệm mới có thể là chỗ dựa tin cậy cho mỗi học sinh của mình ở trường, mới có thể truyền đam mê, xây đắp trong lòng mỗi học sinh những ý thức tốt đẹp nhất về nhân cách để làm tốt công tác giảng dạy của mình, tạo ra lớp người tiến tiến đáp ứng yêu cầu càng cao của xã hội.
Thứ tư, giáo viên chủ nhiệm phải thường xuyên sinh hoạt lớp để nắm bắt tình hình chung. Để giờ sinh hoạt được hiệu quả, giáo viên chủ nhiệm cần chú ý:
– Giáo viên chủ nhiệm cần liên tục đổi mới nội dung sinh hoạt, tránh tình trạng lặp đi, lặp lại một nội dung. Điều đó có nghĩa là, giáo viên chủ nhiệm cần đưa vào buổi sinh hoạt những nội dung mang tính thời sự, cấp thiết, liên quan mật thiết tới hoạt động học tập và sinh hoạt hàng ngày của học sinh. Đồng thời, trong mỗi tiết sinh hoạt giáo viên chủ nhiệm cần tạo ra “cái mới” để các em sẵn sàng chia sẻ những những trăn trở, cùng bàn bạc, trao đổi và thống nhất để thầy và trò cùng thực hiện.
– Buổi sinh hoạt là hoạt động của tập thể lớp chứ không phải của riêng thầy, cô cùng một số học sinh trong lớp. Do đó, giáo viên chủ nhiệm cần tạo ra không khí sống động để lôi cuốn mọi sinh viên trong lớp tham gia tích cực.
Thứ năm, những cuộc tiếp xúc, trao đổi giữa giáo viên chủ nhiệm với phụ huynh học sinh cần thiết thực, hiệu quả, khéo léo, tế nhị và hết sức chân thành.
– Giáo viên chủ nhiệm cần chủ động liên hệ và tiếp xúc với phụ huynh học sinh, đặc biệt là những gia đình học sinh có hoàn cảnh đặc biệt, hoàn cảnh khó khăn để hiểu, thông cảm… . Thông qua đó, giáo viên chủ nhiệm và chính học sinh mình của sẽ gần gũi, thân thiện hơn; mỗi học sinh đó có thể yên tâm và tự tin hơn trong việc học tập và rèn luyện.
– Giáo viên chủ nhiệm phải thường xuyên trao đổi về thái độ học tập trên lớp và kết quả học tập, rèn luyện của các em với phụ huynh. Mỗi tháng, học kỳ, giáo viên phải gửi sổ liên lạc về cho gia đình các em và lắng nghe sự phản hồi từ phía gia đình các em. Ngoài ra, giáo viên chủ nhiệm cần cung cấp thêm cho phụ huynh những hiểu biết về khoa học sư phạm để có cách giáo dục con em mình hiệu quả hơn, từ đó sự phối hợp của phụ huynh với giáo viên chủ nhiệm sẽ thường xuyên và liên tục hơn.
Thứ sáu, trao đổi kinh nghiệm và học tập lẫn nhau về công tác chủ nhiệm. Với vai trò là giáo viên chủ nhiệm, tôi cùng các đồng nghiệp thường xuyên hỗ trợ, trao đổi và học tập lẫn nhau. Hệ thống sổ sách, hồ sơ quản lý được bổ sung, thiết kế một cách khoa học để công tác chủ nhiệm và công tác quản lý học sinh được thuận tiện, khoa học, tạo niềm tin cho mỗi học sinh cũng như gia đình của các em, góp phần thực hiện thành công nhiệm vụ chung của nhà trường, của ngành và hơn cả là của mỗi giáo viên chủ nhiệm.
Trên đây là một số chia sẻ kinh nghiệm về công tác chủ nhiệm của tôi song song với giảng dạy và giáo dục từng bước hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh Tiểu học nói chung_lớp 1 chủ nhiệm nói riêng. Và cũng thông qua bài học, chúng ta có thể nói rằng, thông qua dạy chữ mà dạy người, thông qua dạy học mà giáo dục; Hoặc ngược lại, qua giáo dục mà thúc đẩy dạy học, qua dạy người mà thúc đẩy dạy chữ. Do vậy, việc giảng dạy và giáo dục từng bước hình thành và phát triển nhân cách cho các thế hệ học sinh nói chung chính là mục tiêu, nhiệm vụ chính trị quan trọng của mỗi giáo viên phải làm và làm tốt trên con đường phát triển.

PHẦN III: KẾT THÚC VẤN ĐỀ

I/ KẾT LUẬN CHUNG
Công tác chủ nhiệm lớp, nhất là đối với người giáo viên chủ nhiệm lớp 1 quả thật là nặng nề và phức tạp. Người giáo viên phải vừa như người mẹ dịu dàng, người thầy nghiêm khắc, vừa phải là người bạn gần gũi, trọng tài phân minh. Thành công của giáo viên là làm cho học sinh tôn trọng, kính yêu, tin tưởng, là hình thành ở mỗi học sinh sự tin yêu, bồi dưỡng_ phát triển ở các em những nhân cách tốt, xây dựng nên những tập thể lớp đoàn kết, gắn bó. Muốn đạt được điều đó, giáo viên chủ nhiệm phải thực hiện tốt các nguyên tắc sau đây:
– Thầy cô là tấm gương sáng cho các em noi theo, là niềm tin để các em noi theo lời dạy bảo của thầy cô.
– Hiểu rõ thực tế trường lớp mình, nắm chắc những thuận lợi, khó khăn, khéo léo tìm cách xóa đi mọi rào cản trong mối quan hệ với phụ huynh đề ra những biện pháp hữu hiệu. Tiếp cận gần với các em nhất, tôi nghĩ rằng bất cứ giáo viên nào cũng sẽ sớm trở thành những người bạn của trẻ.
– Luôn gần gũi quan tâm tới từng hoàn cảnh sống của học sinh (nhất là học sinh có hoàn cảnh khó khăn). Bên cạnh đó liên hệ chặt chẽ với phụ huynh học sinh, vận động phụ huynh học sinh có những hành động thiết thực hỗ trợ học tập sẽ giúp cho hoạt động của lớp có hiệu quả hơn.
– Cùng với hoạt động học là hoạt động chủ đạo, để học sinh phát triển toàn diện thì người giáo viên cần phải thu hút học sinh vào những hoạt động tập thể do trường, lớp tổ chức.
– Phối hợp với giáo viên bộ môn phát hiện bồi dưỡng năng khiếu, sở trường của các em. Như vậy sẽ tăng thêm sự tự tin vào khả năng của chỉnh bản thân mỗi học sinh.
– Phải xây dựng được Hội đồng tự quản làm nòng cốt, là cánh tay phải của mình. Muốn vậy, cần phải có sự lựa chọn dựa trên cơ sở định hướng của giáo viên và khả năng tín nhiệm của học sinh.
– Luôn theo dõi, động viên khen thưởng khích lệ các em ở tất cả mọi hoạt động học tập cũng như vui chơi.
Trên đây là những suy nghĩ và việc làm cụ thể bản thân đã và đang làm trong công tác chủ nhiệm góp phần hình thành nhân cách tốt đẹp cho học sinh lớp một chủ nhiệm ở một đơn vị cơ sở. Công tác chủ nhiệm lớp nói chung và chủ nhiệm lớp một nói riêng là một lĩnh vực khó có thể gặt hái được kết quả trong một sớm, một chiều; đòi hòi mỗi người làm công tác chủ nhiệm phải thực sự “yêu nghề mến trẻ”, tâm huyết,… có biện pháp phù hợp với lớp chủ nhiệm thì mới thành công. Những biện pháp, việc làm nêu trên mang tính chủ quan của bản thân ở một đơn vị cơ sở, rất mong được sự đóng góp ý kiến của các đồng chí làm công tác quản lý chỉ đạo và của anh chị em đồng nghiệp.
II/ KIẾN NGHỊ_ĐỀ NGHỊ:
Để làm tốt nhiệm vụ của mình trên cơ sở sáng kiến, tôi xin đề xuất một số ý kiến với các lực lượng trong và ngoài nhà trường như sau:
 Đối với nhà trường: Nhà trường tạo mọi điều kiện về trang thiết bị, đồ dùng dạy học, các tài liệu tham khảo để giáo viên làm tốt công tác chủ nhiệm hơn nữa; tạo mọi điều kiện để giáo viên có thể được học tập nâng cao trình độ chuyên môn.
 Đối với TPT Đội: Cần tổ chức tốt các phong trào, các buổi sinh hoạt ngoại khoá và hoạt động vui chơi bổ ích thiết thực, nhiều hơn nữa, để giúp các em có một sân chơi lành mạnh góp phần hình thành, phát triển toàn diện cho học sinh.
 Đối với cha mẹ học sinh: Cần quan tâm phối hợp chặt chẽ với nhà trường, lớp học, thầy cô hơn nữa trong việc giáo dục các em tự học, tự rèn, hình thành những chuẩn mực đạo đức phù hợp, tích cực cho học sinh. Ngoài ra cần phải quan tâm giáo dục những giá trị đạo đức chuẩn mực của gia đình, địa phương.
 Đối với chính quyền địa phương: Luôn tạo mọi điều kiện quan tâm đầu tư về xây dựng cơ bản để nhà trường có đủ phòng học, phòng chức năng theo quy định để phục vụ tốt giảng dạy và giáo dục, đáp ứng nhu cầu của trường lớp học; quan tâm tới những gia đình chính sách, gia đình nghèo, có hoàn cảnh khó khăn để mỗi học sinh, các em yên tâm đến trường, đến lớp.
 Đối với ngành giáo dục và đào tạo: Đảng ta xác định: “Để đảm bảo chất lượng giáo dục phải giải quyết tốt vấn đề người thầy”. “Vấn đề người thầy” ở đây hiểu rộng rất nhiều khía cạch. Tuy nhiên, vấn đề cốt lõi, cũng là kiến nghị của bản thân là cơ chế chính sánh phù hợp với đội ngũ giáo viên tiểu học, nhất là giáo viên chủ nhiệm lớp, để mỗi người giáo viên thực sự yên tâm, đầu tư cho công tác giảng dạy và giáo dục học sinh một cách thiết thực, tận tâm.
Bình Minh, ngày 20 tháng 4 năm 2015
TÁC GIẢ SKKN
(Ký và ghi rõ họ và tên)

Nguyễn Thị Thuận

ĐƠN VỊ
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
(Xác nhận, đánh giá, xếp loại)

Ngày tháng năm 2015
TM. HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN ĐƠN VỊ
(Ký tên, đóng dấu)

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
(Xác nhận, đánh giá, xếp loại)

Nam Trực, ngày tháng năm 2015
TM. HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN PHÒNG GIÁO DỤC
(Ký tên, đóng dấu)

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1/ Giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học _ TS. Nguyễn Hữu Hợp- ĐHSP Hà Nội.
2/ Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục_PTS. Phạm Viết Vượng.
3/ Tâm lí học đại cương_ Bùi Văn Huệ- ĐHSP Hà Nội.
4/ Giáo dục học đại cương (toàn tập) _ GS. Đặng Vũ Hoạt- TS. Nguyễn Hữu Hợp.
5/ Thực hành về giáo dục học_ PTS. Nguyễn Đình Chỉnh.
6/ Điều lệ trường tiểu học/ 2010_ Bộ GD & ĐT.
7/ Thông tư 30/2014 V/v hướng dẫn đánh giá, xếp loại học sinh TH_ Bộ GD & ĐT.
8/ Luật GD; Luật viên chức.
9/ Một số tài liệu, văn bản của Ngành Giáo dục.